Bài này được phổ biến với sự đồng ý của anh Trần Đăng Chí, cựu học sinh Taberd 1956-1965.Sau đây là danh sách các rạp xi-nê Sài Gòn trước 1975 được sắp theo thứ tự ABC. Hiện tại, một số lớn các rạp hoặc không còn tồn tại hoặc đã ngưng hoạt động. Danh sách này tương đối đầy đủ, nếu còn thiếu sót, xin các thân hữu vui lòng góp ý và gửi e-mail cho tôi:
trandangchi@gmail.comKỷ niệm cá nhân của tôi với các rạp xi-nê thì rất nhiều. Các bạn nào đã xem qua phim
Cinema Paradiso (1988) hẳn phải biết tâm trạng của những đứa bé mê xi-nê như thế nào.
Alliance Française - Đồn Đất. Rạp của Trung Tâm Văn Hóa Pháp chiếu toàn phim Pháp không có phụ đề Việt ngữ, hiếm khi thấy người Việt đi xem. Mặc dù mấy ông Tây rất ghét Mỹ, điều đó ai cũng biết, nhưng đôi khi có chiếu phim Mỹ. Tôi xem được một phim xưa do Humphrey Bogart đóng và phim
Easy Rider (1969) ở rạp này.
Aristo - Lê Lai. Sau 1954 đây là nơi trình diễn thường trực của đoàn cải lương Kim Chung di cư từ miền bắc vào nam, đoàn có thêm tên phụ là Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô. Tài tử chính là nữ nghệ sĩ Kim Chung.
Asam - Đinh Tiên Hoàng, Đa Kao. Rạp này đã dẹp quá lâu rồi, ít ra là vào khoảng từ giữa đến cuối thập niên 50. Rạp không còn vết tích gì nên tôi không còn nhớ, khi bạn bè nhắc lại tôi cũng không hình dung ra sao. Chỉ đến khi nhớ lại phim
Le Retour de Jack Slade (1955) mà tôi đã xem ở rạp này mới nhớ ra là rạp nằm trong một hẻm nhỏ trên đường Đinh Tiên Hoàng gần góc đường Phan Thanh Giản. Gần đó có tiệm mì Cây Nhãn nổi tiếng một thời, về sau nghe nói tiệm mì này dời về ngã tư hay ngã năm Bình Hòa gì đó.
Cẩm Vân - Võ Di Nguy, Phú Nhuận. Có những rạp mà dân coi xi-nê làm như không có duyên hội ngộ nên chẳng bao giờ có dịp bước chân vào. Đối với tôi, mặc dù rạp này cách rạp Văn Cầm Phú Nhuận không bao xa nhưng tôi chưa bao giờ đến xem ở đây. Điều này chứng tỏ rạp Cẩm Vân đã không chiếu phim đúng với sở thích của tôi.
Cao Đồng Hưng - Bạch Đằng, chợ Bà Chiểu, Gia Định.
Casino Đa Kao - Đinh Tiên Hoàng. Rạp tương đối khang trang, phim khá chọn lọc, giá cả nhẹ nhàng, địa điểm rất thuận tiện nằm gần Cầu Bông.
Major Dundee (1965),
The Great Race (1965).
Casino Sài Gòn - Pasteur. Tên mới là Vinh Quang. Năm lên 10 tuổi, tôi được bác của tôi cho lên Sài Gòn ăn ở để đi học trường Taberd. Ngay hôm đầu tiên, tôi đã được cho đi xem xi-nê ở rạp này vì bác tôi có giấy mời coi thường xuyên bao nhiêu lần cũng được. Và cứ thế, mỗi chiều cuối tuần tôi đều được coi xi-nê khoái tỉ, rạp chiếu phim gì cũng coi tuốt hết. Thời đó, những phim trình chiếu rất chọn lọc nên ít khi gặp phim dỏ. Một kỷ niệm nhớ đời và một bài học quí giá cho tôi là phim
20.000 Dặm Dưới Đáy Biển (1954). Tuần đó, bác tôi đã cho đi xem một lần nhưng trong nhà còn có người chưa xem nên bác tôi cho cả nhà đi xem một lần nữa. Thế là đến mấy cái màn hay ho tôi tôi đều nói trước làm cho người chưa xem thấy mất hay, nhất là cái màn mấy ông thổ dân bị điện của tàu ngầm giật xẹt lửa tùm lum phải phóng xuống nước. Về nhà, tôi bị chửi cho một trận nên thân. Từ đó trở đi, tôi luôn nhớ không bao giờ tiết lộ cái bất ngờ hoặc đoạn cuối của phim cho người chưa xem. Trong rạp có bán kem eskimo rất ngon nhưng rất đắt tiền.
20000 Leagues under the Sea (1954),
Drum Beat (1954),
Touchez Pas Au Grisbi (1954).
Cathay - Công Lý, Chợ Cũ.
Catinat - Tự Do. Nếu tôi nhớ không lầm, rạp xi-nê tí hon này nằm trong một hành lang từ đường Tự Do xuyên qua đường Nguyễn Huệ về sau chuyển đổi thành phòng trà ca nhạc với nhiều tên: 'Au Chalet', và 'Đêm Màu Hồng', nơi ra mắt của ban 'Phượng Hoàng' thời kỳ trước khi nhập với ca sĩ Elvis Phương.
Cầu Muối - Bến Chương Dương, Khánh Hội.
Cây Gõ - Minh Phụng, Chợ Lớn.
Diên Hồng - Yersin.
Đại Đồng - Nguyễn Văn Học, Gia Định.
Đại Đồng - Cao Thắng. Một rạp nhỏ chuyên chiếu phim cũ nhưng khá chọn lọc, giá cả thật nhẹ nhàng, địa điểm rất thuận tiện. Càng thuận tiện hơn nữa vì cạnh rạp có một tiệm bò bía rất ngon và rẻ, họ cho rau sống và củ sắn thật nhiều nên tôi thường ghé ăn thế bữa cơm luôn.
Đại Lợi - Thoại Ngọc Hầu, Chợ Ông Tạ.
Đại Nam - Trần Hưng Đạo. Rạp Đại Nam là rạp sang trọng nhất Sài Gòn, những phim mới được chiếu trước tiên ớ đây và một vài rạp khác rồi một thời gian sau mới được đưa đi tỉnh hoặc các rạp nhỏ chuyên chiếu lại. Mỗi phim gồm có nhiều cuộn nên thời đó mấy rạp cùng chiếu chung một phim bằng cách chia lệch giờ khởi chiếu. Mỗi khi chiếu xong một cuộn thì có người xách đi giao cho rạp kế tiếp và ngược lại. Có lần rạp Đại Nam đang chiếu phim
Pillow Talk (1959) thì anh chàng đi giao cuộn phim đã mải mê uống nước giải khát hay sao đó mà để mất đi cuộn phim phải giao. Tất cả các rạp cùng chiếu phim đó đành phải ngưng lại và đem phim khác ra chiếu đỡ. Mãi một thời gian sau, không rõ cuộn phim được chuộc lại hay phải mua phim mới Pillow Talk mới được chiếu trở lại. Đến khi rạp Rex ra đời vào năm 1962 thì rạp Đại Nam xuống còn ngôi vị thứ hai. Tôi có ít nhiều kỷ niệm với rạp này. Gia đình bạn học P.T. Sơn nghe nói sở hữu rạp nên bạn bè chúng tôi thường hay dí bạn Sơn để tìm vé mời. Lâu lâu Sơn cũng chiều ý bạn bè và chìa ra vài vé. Tôi được xem phim
Bernardine (1957) là do vé mời của Sơn tặng. Một kỷ niệm khác là khi mới bắt đầu chơi nhạc cùng với Lê Hựu Hà vào khoảng năm 1965, chúng tôi được dịp trình diễn một lần ở đây. Lúc đó, Hà mới bắt đầu sáng tác và giao cho tôi trình bày bản
Chiều Về vì phần hòa âm đòi hỏi Hà phải bận độc tấu guitar suốt bài nhạc không tiện hát chính ngoại trừ những đoạn ca bè theo. Vài năm sau, một Đai Hội Nhạc Trẻ được tổ chức ở đây. Vào cái thời tiểu thuyết của nữ văn sĩ Trung Hoa Quỳnh Dao đang hồi cực thịnh và được quay thành phim liên miên trong đó có
Mùa Thu Lá Bay với đôi tài tử đẹp trai đẹp gái Đặng Quang Vinh và Chân Chân, tôi đã xem phim này ở rạp Đại Nam và được cái hân hạnh đưa một cô gái Tàu thật trẻ đẹp đi xem cùng. Đầu đuôi câu chuyện như sau đây. Đám nhạc sĩ chúng tôi khi đến vũ trường nào chơi nhạc trước sau gì rồi cũng dính với một em ca ve ở đó. Rồi khi nhổ neo sang vũ trường khác thường thì cũng đành ca bài chia tay vui dầy duyên mới. Có nhiều em ca ve hay gọi đùa chúng tôi là mấy thằng cha 'thợ đờn'. Nói vậy chớ mấy em không hận thù gì hết, thời loạn ly mà, vui được ngày nào hay ngày nấy miễn là còn gặp nhau là còn chơi đẹp với nhau. Năm đó, nhạc sĩ Đức Phú mời tôi vào ban nhạc về cộng tác với vũ trường 'La Sirène' nằm trên đường Pasteur đối diện với rạp Casino Sài Gòn. Suốt mấy đêm đầu đứng đàn trên ban nhạc và quan sát thật kỹ lưỡng đội ca ve của vũ trường, tôi hoàn toàn thất vọng. Điệu này đàn ở đây coi bộ mất hứng rồi, không lẽ không còn gì nữa hay sao? Ngay lúc đó, tôi bèn giật mình khám phá ra một cô hầu bàn người Tàu rất trẻ và rất xinh đứng trông chừng mấy cái bàn phía tôi hay đi lên đi xuống. Thế là lần này tôi chuyển hướng sang cô xẩm nhỏ và đưa cô ấy đi xem phim
Mùa Thu Lá Bay đang chiếu ở rạp Đại Nam. Được dịp coi phim Tàu mà lại có người đẹp Tàu đi xem cùng và phiên dịch cho mình nghe những điểm hay của phim làm tôi rất thích thú ... cho đến khi cô ấy đem chai dầu hiệu 'Con Sóc' ra xức thì mọi cái gì hay đẹp đối với tôi đều sụp đổ một cái rụp! Vốn cái lỗ mũi của tôi trời cho quá thính nên cái mùi gì không hợp là bắt buộc tôi phải tháo chạy. Về sau này, có những lúc nằm chèo queo một mình nhớ lại thấy tiếc. Nhận xét của tôi về nhan sắc của cô gái Tàu rất đúng, một thời gian sau, tôi thấy cô bỏ nghề hầu bàn đi làm ca ve. Chắc chắn là cô ấy cũng nổi tiếng như một vài hoa khôi khác của làng ca ve Sài thành hồi đó và biết đâu cô ấy đã tiến bộ hơn không còn xài dầu Con Sóc nữa!
Đại Quang - Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn. Rạp này hoàn toàn Trung Hoa chẳng có gì là Việt Nam hết vì họ chiếu toàn phim Tàu nên tôi không bao giờ có dịp bước chân vào. Tuy vậy, tôi lại có một kỷ niệm dễ thương với rạp này do rạp nằm ngay cạnh vũ trường Bách Hỷ, nơi tôi chơi nhạc mấy năm cuối cùng trước khi rời khỏi Việt Nam vào hạ tuần tháng 4 năm 1975. Do cảm tình đặc biệt, mỗi tối khi tôi đến Bách Hỷ, một em trai chạy đến đem chiếc xe gắn máy Honda cà tàng của tôi đi cất cùng với những chiếc xe của khán giả rạp Đại Quang. Khi vũ trường tan, tôi vừa bước ra khỏi cửa là đã thấy em dắt chiếc xe lại cho tôi. Dù đó là một cử chỉ nhỏ nhặt tầm thường nhưng đối với tôi nó có một cái gì thật là ấm lòng chiến sĩ.
Đông Nhì - Lê Quang Định, Gia Định.
Eden - Tự Do. Rạp này quá nổi tiếng và đối với tôi cũng nhiều kỷ niệm. Trước nhất, rạp này không nằm ngoài mặt đường mà lại nằm sâu trong một thương xá cũng được gọi là Eden. Đến rạp, khán giả có thể đi vào từ phía đường Tự Do, Lê Lợi hay Nguyễn Huệ đều được cả. Cái tên rạp tiếng Pháp tự nó cho biết rạp này đã có từ thời Pháp thuộc và kiến trúc bên trong thì đúng y như những rạp bên Pháp được thấy qua các phim xi-nê. Ở Sài Gòn, chỉ duy nhất rạp này mới có hai balcons (tầng lầu). Thông thường, khi xem xi-nê, ngồi balcon 1 là hay nhất vì nhìn xuống vừa tầm mắt không mỏi cổ và không bị cái đầu của người ngồi hàng ghế trước che khuất tầm nhìn. Balcon 2 của rạp Eden thì nhỏ hơn và quá cao nên nhìn sâu xuống muốn cụp cái cổ luôn nên phần đông khán giả chẳng màng để ý đến sự hiện hữu của nó, ngoại trừ dân đào kép Sài Gòn thì chiếu cố rất nhiệt liệt và gọi đó là 'pigeonnier' (chuồng bồ câu). Đi xem xi-nê một mình khi rạp hết chỗ phải lên đó thì buồn lắm vì trên ấy đào kép mùi mẫn chẳng cần biết trên màn ảnh chiếu cái gì, nhất là những cặp ngồi ở hàng ghế chót có sau lưng nguyên bức tường thì tha hồ lâm ly chẳng lo có ai nhìn đến trong cái tối mù mù. Ca sĩ Dalida đã trình diễn ở rạp này. Một lần khác, tôi đi xem một ban nhạc jazz của Tây Đức (thời đó còn Tây Đức và Đông Đức). Mấy năm sau đó, cũng tại rạp này, tôi được xem phim
Parlez-Moi d'Amour (1961) do Dalida đóng. Một kỷ niệm cho các bạn cùng học Taberd với tôi là khoảng đầu thập niên 60, không rõ là do nhã ý của ai, cả lớp chúng tôi và các lớp khác được đưa đến rạp này để xem phim
Les Pilliers du Ciel (Pillars of the Sky (1956)), một phim cao bồi của Mỹ do Jeff Chandler và Dorothy Malone đóng. Còn về kỷ niệm cá nhân thì mấy năm sau nữa, vào một chiêu cuối tuần, tôi mời cô đào của tôi đi nhảy đầm matiné nhưng cô ấy nói đã lỡ mua vé xem phim
My Fair Lady (1964) tại Eden cùng với một cô bạn rồi. Tôi kêu cô đào của tôi bán cái vé lại cho người khác rồi đi chơi với tôi. Thế là buổi hôm đó, cô bạn gái của cô đào của tôi tự nhiên thấy có một người đàn ông lạ hoắc lù lù đến ngồi kế bên. Nghĩ lại, tôi vẫn thấy buồn cười và nghĩ xa hơn về chuyện đời thì thấy là khi mới quen nhau còn chịu đèn thì mọi việc đều ổn thỏa, đến khi không còn nồng thắm nữa thì cái gì cũng không xong: nào là bận cái này cái nọ, nhức đầu nóng lạnh đủ mọi lý do trên đời!
Hào Huê - Nguyễn Hoàng, Chợ Lớn.
Hoàng Cung - Triệu Quang Phục, Chợ Lớn.
Hồng Liên - Hậu Giang, Chợ Lớn.
Huỳnh Long - Châu Văn Tiếp, Gia Định, phía góc chợ Bà Chiểu.
Hùng Vương - Pétrus Ký, Sài Gòn.
Hưng Đạo - Nguyễn Cư Trinh. Trong thời kỳ tin tức chiến sự sôi động biến chuyển từng ngày từng giờ của tháng 4 năm 1975, tinh thần của mọi người giao động đến cực độ và linh tính sẽ có chuyện gì lớn lao sắp xảy ra. Tôi cũng như bao nhiêu người khác còn biết làm gì hơn là chờ đợi những gì sẽ đến. Một ngày thượng tuần của tháng, tôi đến rạp Hưng Đạo xem xi-nê trong cái tinh thần đó, một cách để giết thì giờ chớ tâm trí của tôi không thể chú ý một cách bình thường vào tình tiết đang diễn ra trên màn ảnh. Trong trạng thái xem phim hờ hững đó thì bỗng phim ngưng chiếu và đèn trong rạp bật sáng lên, không phải dấu hiệu của cảnh đứt phim thông thường vì có một số rất đông khán giả ùn ùn đi ra ngoài. Tôi cũng đi theo và được biết là dinh Độc Lập vừa bị dội bom. Bây giờ, tôi cố nhớ lại lúc đó xem phim gì cũng không nhớ ra, chỉ nhớ loáng thoáng là một phim Pháp. Còn về thời điểm chính xác của biến cố, tôi thấy chẳng cần phải truy tìm thêm vì lúc nào cũng có sẵn trên Internet.
Imperial Lê Ngọc - Nguyễn Cư Trinh. Tên cũ là Alhambra.
Khá Lạc - Nguyễn Tri Phương. Rạp nằm cạnh tiệm phở Tương Lai hiện vẫn còn bán phở. Một anh bạn thân cho biết lần đầu tiên anh được xem xi nê là tại rạp này với phim
Samson and Delilah (
Samson et Dalila). Riêng cá nhân tôi, tôi hoàn toàn không biết rạp này cho đến khi anh bạn nói tới, mặc dù nhà của tôi cùng nằm trên đường Nguyễn Tri Phương kể từ năm 1962. Như vậy, rạp này có lẽ đã hoạt động trước thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Một điểm khác nói về tiệm phở Tương Lai cạnh rạp, trước Tết năm 1966, chúng tôi đến ăn phở ở đây và phải trả 200 đồng cho một tô phở, trước đó chỉ khoảng 150 đồng. Đấy là thời điểm vật giá bắt đầu leo thang vào những năm 60.
Khải Hoàn - Võ Tánh và Cống Quỳnh. Trong cuộc đời làm người xem xi-nê của tôi, có những rạp không có duyên với tôi nên tôi chưa bao giờ được bước chân vào các rạp đó. Trái lại, có những rạp rất có duyên với tôi nên xem hết phim này đến phim khác. Rạp Khải Hoàn là một. Có thể yếu tố quyết định là rạp này tuyển chọn phim đúng ý tôi và địa điểm tọa lạc nơi thị tứ, giá tiền lại tương đối phải chăng nên tôi đã xem khá nhiều phim ở đây trong đó có phim
Hiệp Sĩ Mù Nghe Gió Kiếm, và
Mưa Lạnh Hoàng Hôn. Riêng phim sau, chương trình quảng cáo có phụ diễn tân nhạc nhưng hôm đó khán giả đã chờ mãi vẫn không thấy hơi hám ca nhạc sĩ đâu hết. Cuối cùng có nghệ sĩ Ngọc Phu bước ra sân khấu làm một màn tự biên tự diễn không đàn địch phụ họa chi cả, anh giả làm tiếng chó sủa, gà gáy, ngựa hí, quạ kêu qua loa cho xong rồi chiếu phim. Hiện tại, anh và gia đình đang sinh sống ở Nam California và tôi cũng đã có lần sinh hoạt văn nghệ với nghệ sĩ đàn anh này. Một kỷ niệm khác của tôi ở rạp này là gặp phải nạn móc túi. Gặp hôm mua vé có chen lấn, tôi cảm thấy có mấy ngón tay cứ muốn thọt vào túi quần và tôi đã kịp chận lại. Rất có thể đây là một tay chưa chuyên nghiệp. Bằng không thì chắc số tiền ít ỏi của tôi cũng đã bay mất rồi!
Kim Châu - Nguyễn Văn Sâm, Chợ Cũ. Cảm tình của tôi đối với rạp này tương tợ như đi mua một chiếc xe mới. Khi rạp bắt đầu khai trương thì họ đã quảng cáo sẽ chiếu phim
Sapho (1960). Tuy chỉ là một phim hạng B hoặc C nhưng nữ tài tử Tina Louise có vẽ đẹp duyên dáng nên tôi đến xem phim trong tinh thần như vừa mua sắm được một chiếc xe như ý. Qua đến những phim kế tiếp, rạp Kim Châu đã tuyển chọn những phim cùng loại nên rất được khán giả hài lòng.
Kinh Đô - Lê Văn Duyệt. Đây là một rạp xi-nê hạng sang, chỉ kém hơn rạp Đại Nam một tí. Rạp khai trương sau rạp Đại Nam nhưng lại chỉ hoạt động một thời gian tương đối ngắn ngủi rồi biến thành một chi nhánh của cơ quan USAID. Tôi có một kỷ niệm với rạp này. Hai cha con tôi vốn là những người ghiền xi-nê, Hôm đó, cha tôi đưa tôi lên Sài Gòn để nhập học nội trú sau một kỳ nghỉ hè, tôi được thả ở ngoài phố để đi dạo mua sắm. Tôi vẫn được sống một cuộc sống tự do như thế từ khi còn nhỏ. Còn khá nhiều thì giờ trước khi phải trình diện mấy sư huynh La San Taberd, tôi bèn lang thang đến rạp Kinh Đô nơi đang chiếu phim
La Dernière Torpille (
Torpedo Run) (1958). Trùng hợp thay, tôi gặp lại cha tôi cũng vừa đến đó, thế là cha tôi cho tôi cùng vào xem phim, tôi đỡ phải bỏ tiền ra mua một cái vé xi-nê.
Kinh Thành - Hai Bà Trưng, Tân Định.
Lạc Xuân - Gia Long, Gò Vấp. Mặc dầu đơn vị của tôi tọa lạc ở Hạnh Thông Tây cách rạp này không bao xa và sau này có rất nhiều lần đi ngang qua nhưng tôi không hề biết đến sự hiện hữu của nó. Một người bạn thân lúc còn ở quân ngũ đã được huấn luyện gần đó có nhắc nên tôi mới biết. Bà con ở Gò Vấp thì biết rạp này rất rõ.
Lam Sơn - Bùi Chu. Mũi tàu Lê Lai, Bùi Chu, Võ Tánh chéo góc với nhà thờ Huyện Sĩ, vòng qua bên hông rạp phía đường Lê Lai thì có nhà của nữ kịch sĩ Kim Cương. Rạp xi-nê này chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn ngủi rồi bị đóng cửa vì vị trí của rạp quá gần một nhà thờ, vào thời kỳ đó là Đệ Nhất Cộng Hòa, nên Công Giáo đang có ưu thể.
Lê Lợi - Lê Thánh Tôn. Rạp chiếu phim cũ nhưng tuyển chọn toàn phim hay và chỉ chiếu trong 1, 2, hoặc 3 ngày rồi đổi sang chiếu phim khác. Những phim classic như
High Noon,
Crimson Pirates,
Vera Cruz,
Waterloo Bridge, ... được chiếu đi chiếu lại luôn, nếu hụt xem phim nào thì khán giả cứ kiên nhẫn chờ đợi, một thời gian sau thế nào phim đó cũng sẽ được chiếu lại. Lịch trình chiếu phim được niêm yết trước gần một tháng để khán giả chuẩn bị ngày đi xem phim. Rạp Lê Lợi có thể nói là rạp duy nhất ở Sài Gòn chiếu phim theo phương thức này, một ít rạp khác có bắt chước phần nào nhưng rồi cũng không theo hoàn toàn hoặc sau đó phải thay đổi phương hướng.
Rạp Lê Lợi được nhóm học sinh chúng tôi chiếu cố khá nhiều vì rạp chiếu phim hay và giá vé rất nhẹ. Thời đó, chúng tôi đi học ngày hai buổi nên buổi chiều nào chán học là chúng tôi rũ nhau 'cúp cua' đi xem xi nê ở rạp này.
Ngoài ra, một người bạn cùng lớp là con cháu của chủ rạp Lê Lợi nên chúng tôi hay 'dí' hắn để kiếm vé mời xem xi nê ở rạp này khỏi tốn tiền, chỉ phải đóng tiền thuế rất nhẹ mà thôi.
Khi qua đến Mỹ, tôi mới được biết loại rạp xi nê này được gọi là 'revival movie theater', chỉ khác một chi tiết là họ chiếu hai phim liên tiếp cùng có chủ đề giống nhau. Ai chịu đựng nổi thì ngồi xem hết, ai chịu không nổi thì phải bỏ về thôi vì quá đói bụng, họ không cho đem thức ăn từ ngoài rạp vào và trong rạp chỉ có bán popcorn (bắp rang Mỹ), kẹo, bánh, soda (nước ngọt có ga như: Coca Cola, 7Up, ...).
Thời đó vào đầu thập niên 80, video cassette vừa mới xuất hiện chưa có ra phim nhiều, những phim Âu Châu rất hiếm, chỉ có thể xem tại các rạp revival này. Rạp Nuart là một, rạp này nằm ở tận Santa Monica cách xa sở làm của tôi cả tiếng đồng hồ lái xe, nhưng khi gặp phim đã kết thì giá nào cũng đi xem cho được. Buổi chiều vừa ra khỏi sở là phóng xe ào ào cho kịp giờ chiếu phim, vào rạp mua một bịch popcorn rồi tử thủ xem cho hết luôn hai phim. Cũng may là popcorn giúp cơ thể chống đói rất hay, nếu chịu không nổi nữa thì có kẹo chocolate, chơi vào một cây 'Three Musketeers' là bao tử êm ngay. Tôi học cái bí quyết này từ mấy cô gái Mỹ, đi chơi với họ rất tự nhiên thoải mái. Khi date họ mà trong túi lại ít tiền thì mấy cô ấy bảo cứ mua cho họ một thỏi chocolate là xong, khỏi cần ăn tối để đi chơi mục khác.